Hà Nội, Thứ Bảy Ngày 20/04/2024

Phương pháp trích lập các khoản dự phòng và những vấn đề liên quan

Linh Nhi 10:24 15/10/2019

Việc trích lập dự phòng có một ý nghĩa quan trọng đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ở Việt Nam, cụ thể, việc này có tác động đáng kể đến kết quả sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.

Bản chất của các khoản trích lập dự phòng

Về mặt bản chất, có thể chia các khoản dự phòng như sau:

Nhóm dự phòng nhằm bù đắp tổn thất tài sản của doanh nghiệp, gồm có dự phòng giảm giá đầu tư tài chính (dài hạn và ngắn hạn); dự phòng nợ phải thu khó đòi; dự phòng giảm giá hàng tồn kho;

Nhóm dự phòng về khả năng phát sinh nợ phải trả của doanh nghiệp, gồm có dự phòng trợ cấp mất việc làm và dự phòng phải trả (như dự phòng về bảo hành sản phẩm, hàng hóa, tái cơ cấu doanh nghiệp, dự phòng cho các hợp đồng có rủi ro lớn,…);

Nhóm dự phòng quỹ thuộc vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Hiện nay có quỹ dự phòng tài chính. Đây là dự phòng về khả năng tổn thất vốn chủ sở hữu do những nguyên nhân khách quan.

Nguyên tắc trích lập

Theo Chuẩn mực Kế toán Việt Nam số 18 - "Các khoản dự phòng, tài sản và nợ tiềm tàng", một khoản dự phòng chỉ được phép trích lập khi thỏa mãn đủ các điều kiện sau:

Doanh nghiệp có nghĩa vụ nợ hiện tại (nghĩa vụ pháp lý hoặc nghĩa vụ liên đới) do kết quả từ một sự kiện đã xảy ra.

Sự giảm sút về những lợi ích kinh tế có thể xảy ra dẫn đến việc yêu cầu phải thanh toán nghĩa vụ nợ.

Đưa ra được một ước tính đáng tin cậy về giá trị của nghĩa vụ nợ đó.

Các khoản trích lập dự phòng chính có tác động đáng kể đến kết quả sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.

Phương pháp trích lập các khoản dự phòng theo quy định hiện nay

Theo quy định của hệ thống kế toán Việt Nam hiện hành có nhiều khoản dự phòng nhằm đáp ứng các yêu cầu về mặt quản lý cũng như dự tính bù đắp các khoản tổn thất của doanh nghiệp (DN). Đó là các khoản dự phòng giảm giá các khoản đầu tư tài chính (ngắn hạn, dài hạn), dự phòng phải thu, dự phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng trợ cấp mất việc làm, dự phòng phải trả và quỹ dự phòng tài chính.

Hệ thống cơ sở pháp lý có liên quan đến các khoản dự phòng trong DN, bao gồm: Chuẩn mực kế toán số 18 “Các khoản dự phòng, tài sản và nợ tiềm tàng” (VAS18 – theo Quyết định số 100/2005/QĐ-BTC), chuẩn mực này quy định và hướng dẫn các nguyên tắc, phương pháp kế toán các khoản dự phòng; Thông tư số 288/2009/TT-BTC ngày 07/12/2009 của Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ trích lập và sử dụng các khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho, tổn thất các khoản đầu tư tài chính, nợ phải thu khó đòi và bảo hành sản phẩm, hàng hóa, công trình xây lắp tại DN.

Sau đó, là các thông tư sửa đổi, bổ sung nội dung của Thông tư số 288/2009/TT-BTC như: Thông tư số 34/2011/TT-BTC, Thông tư số 89/2013/TT-BTC.

Sau này, Thông tư số 200/2014/TT-BTC hướng dẫn chế độ kế toán DN, ra đời đã quy định cụ thể về nguyên tắc hạch toán, nội dung tài khoản, phương pháp kế toán các giao dịch chủ yếu phát sinh liên quan đến các khoản dự phòng. Hệ thống văn bản lồng ghép chung về đối tượng và điều kiện lập dự phòng, phương pháp trích lập và xử lý các khoản dự phòng phải kể đến Thông tư số 86/2016/TT-BTC hướng dẫn một số nội dung về quỹ dự phòng rủi ro, bồi thường thiệt hại về môi trường.

Phương pháp trích lập dự phòng nợ phải thu khó đòi

Tại thời điểm lập BCTC năm, nếu các khoản nợ phải thu được xác định khó đòi, DN phải trích lập dự phòng. Cụ thể:

Đối với nợ phải thu quá hạn thanh toán, mức trích lập dự phòng như sau: 30% giá trị đối với khoản nợ phải thu quá hạn từ trên 6 tháng đến dưới 1 năm; 50% giá trị đối với khoản nợ phải thu quá hạn từ 1 năm đến dưới 2 năm; 70% giá trị đối với khoản nợ phải thu quá hạn từ 2 năm đến dưới 3 năm; 100% giá trị đối với khoản nợ phải thu từ 3 năm trở lên.

Đối với các khoản nợ phải thu chưa đến hạn thanh toán nhưng DN thu thập được các bằng chứng xác định tổ chức kinh tế đã phá sản hoặc đã và đang làm thủ tục giải thể; người nợ mất tích, bỏ trốn, đang bị các cơ quan pháp luật truy tố, giam giữ, xét xử hoặc đang thi hành án hoặc đã chết thì DN dự kiến mức tổn thất không thu hồi được để trích lập dự phòng.

Phương pháp trích lập dự phòng bảo hành sản phẩm, hàng hóa, công trình xây lắp

Tại thời điểm lập BCTC năm, căn cứ tình hình tiêu thụ, bàn giao sản phẩm, hàng hóa, công trình xây lắp và các cam kết bảo hành tại hợp đồng hoặc các văn bản quy định khác, DN phải trích lập dự phòng, dự kiến mức tổn thất trích bảo hành sản phẩm, hàng hoá, công trình xây lắp đã tiêu thụ trong năm và tiến hành lập dự phòng cho từng loại sản phẩm, hàng hoá, công trình xây lắp có cam kết bảo hành.

Tổng mức trích lập dự phòng bảo hành của các sản phẩm, hàng hoá, công trình xây lắp theo quy định đã cam kết với khách hàng nhưng tối đa không vượt quá 5% tổng doanh thu tiêu thụ đối với các sản phẩm, hàng hoá và không quá 5% trên giá trị hợp đồng đối với các công trình xây dựng. Đối với dự phòng bảo hành sản phẩm, hàng hoá khi trích lập hạch toán vào chi phí bán hàng. Đối với dự phòng bảo hành công trình xây lắp khi trích lập hạch toán vào chi phí sản xuất chung.

Khi áp dụng các quy định trích lập dự phòng cũng có những bất cập nhất định mà doanh nghiệp cần lưu ý.

Một số bất cập khi áp dụng các quy định trích lập dự phòng

Từ những quy định và thực tế sử dụng phương pháp trích lập dự phòng theo quy định tại (1) dự phòng do giảm giá hàng tồn kho, (2) dự phòng tổn thất các khoản đầu tư, (3) dự phòng tổn thất nợ phải thu khó đòi và (4) dự phòng bảo hành sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, công trình xây dựng. Theo thông tư số 200/2014/TT-BTC, ngoài 4 khoản dự phòng, còn có nhiều khoản dự phòng khác như: Dự phòng trợ cấp thôi việc, dự phòng sửa chữa, bảo dưỡng tài sản cố định định kỳ, dự phòng thực hiện hợp đồng rủi ro lớn, dự phòng hoàn nguyên môi trường… Đây đều là những khoản chi phí hợp lý, phù hợp với quy định của pháp luật và phù hợp thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, hiện nay các DN vẫn chưa được khấu trừ khi tính thuế thu nhập DN do chưa có hướng dẫn về cách trích lập và xử lý.

Với khoản trích lập dự phòng mang tính chất quỹ (như quỹ dự phòng tài chính) thì thuộc sự điều chỉnh của cơ chế tài chính khác mà không thuộc quy định về dự phòng này. Quy định cách xử lý khác nhau này dẫn đến những người làm công tác kế toán không biết nên áp dụng như thế nào. Về việc trích lập lần đầu, trích lập bổ sung thêm đều tính vào chi phí thì cơ bản đã thống nhất nhưng về việc hoàn nhập thì còn có sự khác biệt. Đi sâu về bản chất, ta thấy dù theo phương pháp xử lý hoàn nhập nào (ghi giảm chi phí hay tăng thu nhập) đều làm cho kết quả trong kỳ tăng lên.

Sự giảm sút lợi ích kinh tế có thể xảy ra

Điều kiện ghi nhận một khoản nợ là khoản nợ đó phải là khoản nợ hiện tại và có khả năng làm giảm sút lợi ích kinh tế do việc thanh toán khoản nợ đó.

Việc ghi nhận một khoản trích lập dự phòng (khoản nợ) phải đi kèm với điều kiện phát sinh các tác động tới lợi ích kinh tế của doanh nghiệp trong tương lai thông qua việc thanh toán nghĩa vụ nợ đó (trong ví dụ nêu trên chính là việc thanh toán cho khoản tiền nộp phạt).

Tuy nhiên, không nhất thiết doanh nghiệp phải xác định cụ thể đối tác được hưởng quyền lợi từ nghĩa vụ nợ của doanh nghiệp (với ví dụ trên, DN có thể sẽ phải chi trả khoản chi phí khắc phục các ảnh hưởng đến môi trường và người hưởng lợi là cộng đồng nói chung).

Nguồn:

1. tapchicongthuong.vn

2. tapchitaichinh.vn

3. stox.vn

Link gốc : https://sohuutritue.net.vn/phuong-phap-trich-lap-cac-khoan-du-phong-va-nhung-van-de-lien-quan-d62497.html

Bạn đang đọc bài viết Phương pháp trích lập các khoản dự phòng và những vấn đề liên quan tại chuyên mục Kinh doanh. Thông tin phản ánh, liên hệ đường dây nóng : 0915 15 67 76 - 0904 065 256 Hoặc email: [email protected]
Tin cùng chuyên mục Kinh doanh