![]() |
-- |
Chưa bao giờ, nước - nguồn sống từng tưởng như vô tận, nay trở thành tài nguyên chiến lược, thậm chí là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại của hàng chục triệu người dân và cho tương lai phát triển của vùng kinh tế trọng điểm này.
Đằng đẵng những cơn khát giữa vựa lúa
Hơn 20 năm trước, người miền Tây từng đùa rằng “xẻ kênh là thấy nước”. Nhưng nhiều năm trở lại đây, những hình ảnh ấy dần lùi vào dĩ vãng. Giữa mùa khô, những con rạch từng trong veo giờ mặn đắng; ruộng đồng nứt nẻ, kênh cạn trơ đáy, đó là bức tranh quen thuộc của nhiều địa phương vùng hạ lưu sông Mekong.
![]() |
Chiếc ghe bỏ neo giữa lòng kênh cạn – hình ảnh quen thuộc mỗi mùa khô ở miền Tây. Khi dòng nước rút đi, con người nơi đây lại phải gồng mình chống chọi với những “cơn khát” của vựa lúa lớn nhất cả nước. Ảnh: Quang Nam |
Tình trạng hạn hán và xâm nhập mặn tại Đồng bằng sông Cửu Long không còn là hiện tượng chu kỳ, mà đã trở thành xu thế thường trực. Từ “mùa khô lịch sử” 2015–2016, đến đợt hạn – mặn kéo dài 2019–2020, rồi tái diễn nghiêm trọng trong mùa khô 2023–2024, các con số và hình ảnh đều cho thấy mức độ ngày càng khốc liệt. Mặn đến sớm hơn, ăn sâu hơn và kéo dài hơn qua từng năm.
Theo các quan sát đầu mùa khô 2024–2025, tuy không nghiêm trọng bằng năm trước nhưng chiều sâu ranh mặn 4g/l tại một số cửa sông đã lên tới 42–60 km, thậm chí tại khu vực hai sông Vàm Cỏ được ghi nhận trên 60 km. Ghi nhận tại một số điểm như tại Kiên Giang, trên sông Cái Bé đoạn qua xã Bình An (huyện Châu Thành), độ mặn đo được là 4,0‰; sông Cái Lớn đoạn qua xã Thủy Liễu (huyện Gò Quao), độ mặn cũng ở mức tương tự. Tổng lượng dòng chảy mùa cạn qua trạm Tân Châu và Châu Đốc ước chỉ đạt 48,9–51 tỷ m³, thấp hơn trung bình nhiều năm từ 2-6 %.
![]() |
Giữa trưa nắng, người đàn ông miền Tây lại lên đường mang theo can nước ngọt – thứ tài sản quý giá trong mùa khô khát. Ảnh: Quang Nam |
Không chỉ là câu chuyện “nước mặn – nước ngọt”, đó còn là sự đổi thay trong cấu trúc tự nhiên: các con sông lớn suy giảm dòng chảy, mưa thất thường, mực nước biển dâng, khiến vùng đất trù phú một thời trở nên mong manh trước thiên nhiên khắc nghiệt.
Hệ lụy kép từ sinh kế người dân đến sản xuất công nghiệp cùng chịu tác động
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, hạn – mặn mùa khô 2023–2024 đã khiến 1.189 ha lúa bị giảm năng suất, trong đó 43 ha mất trắng tại Sóc Trăng. Hơn 73.000 hộ dân thiếu nước sinh hoạt, nhiều vùng ven biển Bến Tre, Trà Vinh, Cà Mau buộc phải khoan giếng sâu hoặc chở nước bằng sà lan từ tỉnh khác về.
Không chỉ ảnh hưởng đến cây lúa vốn là biểu tượng của miền Tây, nhiều vùng trồng cây ăn trái đặc sản như sầu riêng, bưởi da xanh, xoài cũng bị thiệt hại. Nông dân phải chi thêm 20–30% chi phí cho tưới tiêu và cải tạo đất sau mùa khô.
![]() |
Nguồn nước ngọt khan hiếm khiến nhiều hộ dân ở Đồng bằng sông Cửu Long phải bơm, trữ từng dòng nước để cứu vụ mùa trong cao điểm hạn – mặn. |
Còn tại các khu công nghiệp ven sông Tiền, sông Hậu, tình trạng thiếu nước sản xuất cũng đang diễn ra. Một số nhà máy chế biến thủy sản, thực phẩm phải giảm công suất do nước ngọt không đủ hoặc bị nhiễm mặn. Theo phản ánh của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), chi phí xử lý nước đầu vào tại nhiều nhà máy đã tăng tới 25–30% so với cùng kỳ năm trước.
Thiếu nước đồng nghĩa với giảm năng suất, tăng chi phí vận hành và kéo theo đó là nguy cơ chững lại của dòng vốn đầu tư. “Doanh nghiệp giờ không chỉ hỏi về giá điện, nhân công, mà còn hỏi ‘nguồn nước ở đây có ổn định không?’”, một nhà đầu tư FDI tại Long An chia sẻ. Câu hỏi tưởng nhỏ ấy phản ánh điều lớn: nước giờ là hạ tầng mềm của phát triển kinh tế.
Thách thức mới của phát triển xanh
Với thế giới, nước sạch là thước đo của phát triển bền vững. Với ĐBSCL, nơi sinh kế của gần 18 triệu dân phụ thuộc trực tiếp vào nông nghiệp, thủy sản và công nghiệp chế biến thì nước ngọt chính là “huyết mạch” của mọi hoạt động sản xuất, tiêu dùng và đầu tư.
Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (2024), Việt Nam có thể mất tới 3,5% GDP mỗi năm do tác động của biến đổi khí hậu, trong đó thiếu hụt nước ngọt là yếu tố then chốt. Đặc biệt, chỉ 57% hộ dân ĐBSCL được tiếp cận nguồn nước sạch đạt chuẩn quốc gia.
Nếu không đầu tư vào hệ thống cấp nước quy mô vùng, Việt Nam sẽ khó đạt được Mục tiêu Phát triển Bền vững số 6 (SDG 6) về “nước sạch và vệ sinh môi trường”, cũng như thực hiện Chiến lược tài nguyên nước quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn 2050 – trong đó đặt mục tiêu xây dựng các công trình khai thác, điều hòa, phân phối nước liên tỉnh, liên vùng.
![]() |
Cống ngăn mặn trên kênh Nguyễn Tấn Thành (Đồng Tháp) – một trong những công trình quan trọng giúp kiểm soát xâm nhập mặn và bảo vệ vùng trồng lúa, cây ăn trái ven sông Tiền. Ảnh: Quang Nam |
Đầu tư cho nước, xét đến cùng, là đầu tư cho khả năng chống chịu khí hậu, là hạ tầng cứng bảo vệ những giá trị mềm – con người, sinh kế, và dòng vốn phát triển xanh.
Đã đến lúc cần những công trình quy mô vùng
Nhìn lại chuỗi thiên tai từ 2016 đến nay, rõ ràng những giải pháp cục bộ: đắp đập, ngăn mặn, trữ ngọt… mới chỉ giải quyết phần ngọn. ĐBSCL cần tư duy hệ thống: liên kết nguồn nước giữa các tỉnh, kết nối hạ tầng cấp nước thô từ thượng nguồn sông Tiền, sông Hậu tới vùng hạ mặn, đảm bảo cung cấp ổn định quanh năm.
Và cũng từ thực tiễn ấy, một hướng đi đang hình thành: xây dựng hạ tầng cấp nước quy mô vùng, có khả năng truyền tải nước ngọt ổn định đến các khu vực chịu tác động nặng nề nhất. Trong số các công trình trọng điểm được chuẩn bị triển khai, đáng chú ý là dự án Trạm bơm nước thô Nhà máy nước Đồng Tâm và hệ thống tuyến ống truyền tải – công trình liên kết nguồn nước thô phục vụ Đồng Tháp, Tây Ninh và Vĩnh Long.
Đây không chỉ là dự án kỹ thuật, mà là tầm nhìn chiến lược về an ninh nước, một nỗ lực nhằm “chia sẻ nguồn sống” giữa các địa phương, đảm bảo vùng đất cuối dòng Mekong vẫn đủ nước để sinh tồn, sản xuất và phát triển.
Khi nước trở thành tài nguyên chiến lược, việc nhìn nhận nó như một cấu phần của an ninh quốc gia chứ không chỉ là công trình dân dụng chính là bước ngoặt để Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng bền vững trong kỷ nguyên khí hậu cực đoan.
Phương Nam