|
TKV đặt mục tiêu trong quý IV/2019 sẽ sản xuất 10 triệu tấn than nguyên khai, tiêu thụ 12 triệu tấn. |
Nỗ lực
Những tháng đầu năm 2019, hoạt động sản xuất - kinh doanh gặp rất nhiều khó khăn, trong khi nhu cầu than trong nước tiếp tục tăng cao, song nhờ những giải pháp linh hoạt, hiệu quả, TKV đã đảm bảo than cho sản xuất và có mức tăng trưởng khá ấn tượng (14%).
Trước đó, TKV đặt mục tiêu năm 2019 sản xuất 40 triệu tấn than nguyên khai, tiêu thụ 42 triệu tấn than sạch, tăng 4 triệu tấn so với năm 2018.
Để hoàn thành mục tiêu này, ngay từ đầu năm, cả hai khối sản xuất than lộ thiên và hầm lò đều đẩy mạnh lấy than dưới mỏ. TKV đã tập trung điều hành sản xuất, nhập khẩu theo hợp đồng mua bán ký kết với khách hàng. Đồng thời, triển khai hiệu quả Đề án Tái cơ cấu, trọng tâm là tái cơ cấu kỹ thuật, đổi mới công nghệ, hoàn thiện tổ chức, cơ chế quản lý..., qua đó đã mang lại hiệu quả tăng năng suất lao động, sản lượng đạt cao.
Tính đến hết tháng 9/2019, toàn TKV đã sản xuất 30 triệu tấn, đạt trên 75% kế hoạch năm, bằng 107% so với cùng kỳ, tăng 2,1 triệu tấn so với cùng kỳ. Trong đó, các đơn vị vùng Cẩm Phả đạt 69%, vùng Hòn Gai đạt 79%, vùng Uông Bí đạt 81%. Than sạch thành phẩm đạt 29,25 triệu tấn, bằng 77% kế hoạch và bằng 109% so cùng kỳ năm 2018.
Lượng than pha trộn từ than sản xuất trong nước và than nhập khẩu thực hiện trong 9 tháng đạt 4,77 triệu tấn, hoàn thành 100% kế hoạch đề ra cho cả năm.
Đã có 33,41 triệu tấn than được tiêu thụ, bằng 79% kế hoạch và bằng 108% so với cùng kỳ năm 2018. Trong đó, tiêu thụ trong nước 32,65 triệu tấn, tăng 11%. Riêng than cấp cho các nhà máy nhiệt điện đạt 26,48 triệu tấn, bằng 78% kế hoạch, tăng 23% so với cùng kỳ (tương ứng tăng 5,02 triệu tấn).
Cùng với đó, các chỉ số tài chính của TKV đều được cải thiện và có xu hướng tốt hơn so với cùng kỳ năm 2018. Doanh thu 9 tháng của TKV ước đạt 98.437 tỷ đồng, bằng 77% kế hoạch năm, tăng 17% so với cùng kỳ.
Vượt khó
Đáng nói là, giữa tháng 9, câu chuyện gặp nhiều khó khăn trong sản xuất do nhiều yếu tố, ảnh hưởng đến thực hiện kế hoạch sản lượng được giao và cân đối tài chính đã được nhiều công ty than nhắc tới với lãnh đạo TKV.
Trong đó, Công ty Than Khe Chàm khó khăn do địa chất phức tạp, lò bị nén, điều kiện làm việc khó khăn, nên trong 8 tháng đầu năm chỉ thực hiện được 720 m lò xén, than nguyên khai sản xuất trên 700.000 tấn, đạt trên 50% kế hoạch năm. Bên cạnh đó, công ty này còn gặp khó khăn về lao động, thiếu thợ lò cho việc tăng sản lượng theo kế hoạch lên 1,5 triệu tấn vào năm 2020 và 1,8 triệu tấn vào năm 2021.
Tại Công ty Than Thống Nhất, khó khăn được nhắc tới là chuyển diện sản xuất nhiều; vỉa dốc, gặp nước nhiều, thiếu thợ lò… Tuy vậy, doanh nghiệp này đã đẩy mạnh đào lò, thuê 4 đơn vị đào lò. Dự kiến năm 2019, Công ty có thể sản xuất được 1,75 triệu tấn than nguyên khai và năm 2020 là 1,92 triệu tấn.
Với Công ty cổ phần Than Cọc Sáu, khó khăn do đã khai thác xuống sâu đến mức -265 m, trong khi ở các tầng khai thác từ -250 m trở xuống, các thiết bị lớn khó phát huy, khó khăn trong thoát nước, làm đường, cung độ vận chuyển lớn, chất lượng than xấu. Bởi vậy, than nguyên khai sản xuất 8 tháng chỉ đạt 1,05 triệu tấn, bằng 57% kế hoạch năm.
Công ty Than Hạ Long thì gặp khó khăn do sự cố nước phải điều chỉnh lại diện sản xuất 3 phân xưởng. Đơn vị này cũng muốn TKV điều chỉnh sản lượng, chất lượng than.
Cũng bởi các đơn vị hầm lò gặp nhiều khó khăn, nên 8 tháng đầu năm, sản lượng than của khối này đạt thấp, giảm trên 700.000 tấn so với kế hoạch đã đặt ra.
Tại các đơn vị khai thác than lộ thiên, Công ty Than Cọc Sáu hyền gặp nhiều khó khăn nhất, cần có phương án xuống moong nhanh, đẩy mạnh sản xuất trong quý IV/2019.
Trong quý IV, TKV nỗ lực cao độ để hoàn thành các chỉ tiêu sản xuất - kinh doanh cả năm, trong đó có nhiều chỉ tiêu được Tập đoàn điều chỉnh tăng nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường. Cụ thể, sản lượng than tiêu thụ cả năm là 45 triệu tấn, tăng 3 triệu tấn so kế hoạch. Riêng cung cấp than cho sản xuất điện, TKV đảm bảo thực hiện theo khối lượng các hợp đồng đã ký, dự kiến thực hiện cấp than cho sản xuất điện đạt 35,75 triệu tấn, tăng 23,5% so với năm 2018 (tương ứng tăng 6,81 triệu tấn).
Theo Minh Hoàng/Báo Đầu Tư