Cụ thể, tại sở giao dịch hàng hóa Osaka (OSE), giá cao su kỳ hạn tháng 5/2021, giảm 4,9 JPY, ghi nhận ở mức 230,1 JPY/kg.
Giá cao su kỳ hạn tháng 5/2021 trên sàn Thượng Hải giảm 170 CNY (26,04 USD) xuống 14.030 CNY/tấn.
Thị trường cao su dự kiến sẽ duy trì vững khi mùa đông tại các nước sản xuất Đông Nam Á sẽ đến sớm vào đầu năm tới, mùa đông thường khô kéo dài từ tháng 2 - tháng 5 tại Thái Lan, Malaysia và Indonesia, khiến sản lượng mủ cao su suy giảm.
Giá cao su hôm nay tiếp tục giảm trên thị trường châu Á |
Thị trường cao su Malaysia đã duy trì đà giảm và các thị trường khác trong khu vực cũng chứng kiến xu hướng đi xuống vào cùng thời điểm. Nguyên nhân là do thị trường bị ảnh hưởng bởi sự sụt giảm của giá dầu thô.
Sản xuất công nghiệp tại Trung Quốc được ổn định trở lại, tồn trữ cao su sàn Thượng Hải đã tăng 1,9% so với tuần trước. Đây là kết quả của hoạt động thu mua mủ nguyên liệu từ đầu tháng 11 đến nay.
Hiệp hội Công nghiệp Cao su Toàn Ấn Độ (AIRIA) đã kêu gọi hợp lý hóa cơ cấu thuế cho mặt hàng cao su. Hiệp hội cho rằng, cơ cấu thuế ngược đang tác động tiêu cực đến ngành công nghiệp địa phương.
Cơ quan quản lý ngành lưu ý rằng, nhập khẩu nguyên liệu thô như cao su thiên nhiên và mủ cao su phải chịu mức thuế nhập khẩu cao tới 70%. Trong khi đó, cao su thành phẩm ghi nhận mức thuế thấp hơn nhiều.
Tại thị trường trong nước, giá mủ SVR 20 đang có mức thấp nhất 25.206,3 đồng/kg, SVR L hôm nay đạt 39.297,13 đồng/kg, SVR GP đạt 25.677,86 đồng/kg, mủ SVR 10 đạt 25.318,58 đồng/kg.
Indonesia, Hàn Quốc, Singapore, Việt Nam và Thái Lan là 5 thị trường lớn nhất cung cấp cao su cho Ấn Độ, tuy nhiên nhập khẩu cao su từ các thị trường này đều sụt giảm mạnh cả về lượng và trị giá.
Trong 9 tháng đầu năm 2020, Việt Nam là thị trường lớn thứ 4 cung cấp cao su cho Ấn Độ với 47,2 nghìn tấn, trị giá 68,73 triệu USD, giảm 52,5% về lượng và giảm gần 54% về trị giá so với cùng kỳ năm 2019.
Thị phần cao su, cao su tự nhiên của Việt Nam trong tổng nhập khẩu cao su của Ấn Độ cũng giảm từ 12,58% trong 9 tháng đầu năm 2019, xuống còn 7,68% trong 9 tháng đầu năm 2020.
Cơ cấu thị trường chính cung cấp cao su tự nhiên cho Ấn Độ trong 9 tháng đầu năm 2020 có sự thay đổi khi thị phần cao su của Việt Nam, Malaysia và Thái Lan trong tổng nhập khẩu của Ấn Độ giảm, trong khi thị phần của Indonesia, Bờ Biển Ngà và Singapore lại tăng.
Cùng thời gian, Ấn Độ cũng giảm nhập khẩu mặt hàng cao su tổng hợp (mã HS: 4002), với 279.640 tấn, trị giá 491,45 triệu USD, giảm 18,5% về lượng và giảm 31,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2019, trong đó Hàn Quốc, Nga, Singapore, Nhật Bản và Mỹ là 5 thị trường lớn nhất cung cấp cao su tổng hợp cho Ấn Độ.
Cơ cấu thị trường cung cấp cao su tổng hợp chính cho Ấn Độ trong 9 tháng đầu năm 2020 có sự thay đổi khi thị phần cao su tổng hợp của Nga trong tổng nhập khẩu của Ấn Độ giảm, trong khi thị phần của Hàn Quốc, Singapore, Nhật Bản, Mỹ tăng.
Thị phần cao su tổng hợp Việt Nam chỉ chiếm 0,1% trong tổng nhập khẩu cao su tổng hợp của Ấn Độ.
Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) dẫn số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam cho biết tháng 11/2020, xuất khẩu cao su của Việt Nam đạt 216.400 tấn, trị giá 331,2 triệu USD, tăng gần 101% về lượng và tăng 22,4% về trị giá so với tháng 10/2020; so với tháng 11/2019 tăng 9% về lượng và tăng 26,7% về trị giá.
Giá bình quân xuất khẩu cao su của Việt Nam trong tháng 11/2020 ở mức 1.530 USD/tấn, tăng 10,3% so với tháng 10/2020 và tăng 16,3% so với tháng 11/2019.
Trong tháng 11/2020, xuất khẩu cao su sang Trung Quốc chiếm 80,8% tổng lượng cao su xuất khẩu của cả nước, đạt 174.760 tấn, trị giá 266,06 triệu USD, tăng 14,3% về lượng và tăng 25,2% về trị giá so với tháng 10/2020; tăng 16,7% về lượng và tăng 36% về trị giá so với tháng 11/2019.
Lũy kế 11 tháng năm 2020, xuất khẩu cao su sang Trung Quốc đạt 1,18 triệu tấn, trị giá 1,55 tỷ USD, tăng 16,9% về lượng và tăng 15,4% về trị giá so với cùng kỳ năm 2019.
Việt Nam là thị trường cung cấp cao su lớn thứ 2 cho Trung Quốc, đạt 1,29 tỷ USD, tăng 14,2% so với cùng kỳ năm 2019. Thị phần cao su Việt Nam trong tổng trị giá nhập khẩu của Trung Quốc 10 tháng năm 2020 chiếm 14,9%, tăng so với mức 13,5% của 10 tháng năm 2019.
Theo Kinh tế Chứng khoán