Nhiều giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp KH&CN
Doanh nghiệp khoa học và công nghệ là doanh nghiệp thực hiện sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khoa học và công nghệ để tạo ra sản phẩm hàng hóa từ kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Đồng thời, doanh nghiệp phải thành lập, đăng ký kinh doanh dưới 5 năm và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và doanh thu từ việc sản xuất, kinh doanh sản phẩm, hàng hóa hình thành từ kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đạt tỷ lệ theo quy định tối thiểu 30% trên tổng doanh thu...
Theo thông tin từ Bộ KH&CN, trong 7 tháng đầu năm 2022, Bộ đã cấp thêm Giấy chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ cho 8 doanh nghiệp và cấp thay đổi nội dung trên Giấy chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ cho 13 doanh nghiệp.
Bộ KH&CN cũng đẩy mạnh hỗ trợ phát triển các cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp khoa học và công nghệ, cơ sở ươm tạo doanh nghiệp nhỏ và vừa, cơ sở kỹ thuật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, khu làm việc chung hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo. Tính đến nay, cả nước có khoảng 50 đơn vị hoạt động theo mô hình cơ sở ươm tạo, 1.010 phòng thí nghiệm, 54 tổ chức công nhận và 66 tổ chức giám định, trên 70 không gian làm việc chung.
Bên cạnh đó, Bộ KH&CN còn tập trung triển khai đề án "Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025", đồng thời, phối hợp các bên liên quan triển khai các hoạt động chuẩn bị cho sự kiện Ngày hội đổi mới sáng tạo quốc gia - Techfest quốc gia năm 2022 và các sự kiện bên lề Techfest diễn ra trong tháng 12/2022.
Bộ phối hợp với một số địa phương triển khai sự kiện Techfest vùng, Techfest địa phương; hỗ trợ các địa phương xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo mở, trong đó, chú trọng hỗ trợ xây dựng Đề án xây dựng trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tại thành phố Cần Thơ.
Ông Phạm Hồng Quất, Cục trưởng Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp KH&CN (Bộ KH&CN) cho biết, từ nay đến cuối năm 2022, Bộ KH&CN tiếp tục tập trung phát triển thị trường doanh nghiệp khoa học và công nghệ, nâng số lượng doanh nghiệp khoa học và công nghệ, thúc đẩy phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh mối liên kết nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ.
Đặc biệt, trong năm 2022, Bộ phấn đấu hoàn thiện quy định về cấp giấy chứng nhận chuyển giao công nghệ khuyến khích chuyển giao; giám định máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ; xác định dự án đầu tư sử dụng công nghệ lạc hậu; nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng để tạo điều kiện thuận lợi thu hút các dự án đầu tư sử dụng công nghệ tiên tiến, công nghệ cao chuyển đến Việt Nam.
Ngoài ra, Bộ phối hợp với địa phương, đơn vị nghiên cứu để hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ thông qua việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ thuộc Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia, với mục tiêu hướng tới là ứng dụng công nghệ mới, công nghệ tiên tiến, nâng cao mức độ tự động hóa trong các khâu của quy trình sản xuất, các sản phẩm tạo ra có chất lượng cao, khả năng cạnh tranh và xuất khẩu ra thị trường nước ngoài.
Ảnh minh hoạ
Thúc đẩy phát triển mô hình doanh nghiệp khởi nguồn
Trước đó, Bộ KH&CN cũng khẳng định trong năm 2022 sẽ tiến hành nghiên cứu, đề xuất cơ chế thí điểm phát triển loại hình doanh nghiệp khoa học công nghệ tại các viện nghiên cứu, trường đại học theo mô hình doanh nghiệp khởi nguồn (spin-off).
Mô hình spin-off được hiểu là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, được hình thành trong các trường đại học, viện nghiên cứu để thương mại hoá sản phẩm nghiên cứu khoa học do chính các nhà khoa học nắm giữ công nghệ hay bằng sáng chế.
Theo GS. TS Nguyễn Thị Lan, Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam, khi mô hình tự chủ đại học ra đời, cùng với tinh thần quốc gia khởi nghiệp đã cho phép hình thành các doanh nghiệp trong trường đại học. Thực tế hiện nay cho thấy mô hình doanh nghiệp khởi nghiệp (start-up) đã được quan tâm nhiều, tuy nhiên mô hình doanh nghiệp khởi nguồn công nghệ (spin-off) thì chưa được quan tâm đúng mức, chưa thực sự có những cơ chế khuyến khích thúc đẩy mô hình này phát triển ở các trường đại học.
Hiện Việt Nam có khoảng 237 trường đại học, 16.500 tiến sĩ, 574 giáo sư và 4.113 phó giáo sư. Hằng năm đào tạo khoảng 1.500 tiến sĩ, 36.000 thạc sĩ, gần 1,5 triệu sinh viên đại học và khoảng vài nghìn đề tài nghiên cứu khoa học các cấp được triển khai từ các trường đại học. Rất nhiều đề tài, quy trình công nghệ, sản phẩm khoa học có tiềm năng ứng dụng vào thực tiễn, nhưng chỉ một số khiêm tốn được chuyển giao hay thương mại hóa để tạo ra giá trị gia tăng cao, phục vụ quốc kế dân sinh. Điều này gây lãng phí nguồn lực xã hội.
Mô hình doanh nghiệp spin-off đã rất thành công ở nhiều trường ĐH trên thế giới, như Viện Công nghệ Massachusetts (Mỹ), ĐH KU Leuven (Bỉ), ĐH Wageningen (Hà Lan) và ĐH Queensland (Australia) hằng năm tạo ra khoảng 100-200 doanh nghiệp spin-off, với doanh thu khá lớn và tạo ra nhiều việc làm.
Năm 2020, Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã triển khai chủ trương phát triển spin-off và hình thành thí điểm 2 spin-off trong Học viện. Trong đó có 1 spin-off được thành lập trên cơ sở hỗ trợ của dự án “Tăng cường năng lực ngành hàng rau quả tại miền Bắc và miền Trung Việt Nam”.
Theo Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam, mô hình này tạo cơ chế thuận lợi để các nhà khoa học tự khởi nghiệp bằng chính các công nghệ của mình, đóng góp tích cực cho sự phát triển thương mại hoá sản phẩm khoa học và công nghệ; trình diễn, triển lãm giới thiệu sản phẩm, đặc biệt, mở ra nhiều cơ hội kết nối sâu rộng, toàn diện giữa doanh nghiệp trong trường đại học với doanh nghiệp - đối tác trong và ngoài nước.
GS. TS Nguyễn Thị Lan cũng cho rằng cần thực hiện thí điểm cơ chế, chính sách thuận lợi để phát triển mô hình doanh nghiệp khoa học công nghệ spin-off tại Việt Nam.
Việt Nam đã có nhiều văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh những vấn đề pháp lý liên quan đến các doanh nghiệp khoa học và công nghệ nói chung, nhưng doanh nghiệp khởi nguồn công nghệ hay doanh nghiệp spin-off vẫn chưa được đề cập một cách trực tiếp, cụ thể. Đây có thể xem là một trong những rào cản lớn nhất cho sự hình thành và phát triển mô hình doanh nghiệp spin-off ở Việt Nam hiện nay.
Ngoài ra, còn một số vướng mắc khi áp dụng mô hình doanh nghiệp spin-off trong các trường đại học ở Việt Nam liên quan đến phân chia lợi nhuận thu được từ thương mại hóa kết quả nghiên cứu; về cơ chế quản lý viên chức tham gia thành lập doanh nghiệp trong các cơ sở nghiên cứu, đào tạo…
Ông Phạm Hồng Quất cho hay, Khoản 3 Điều 28 Nghị định số 70/2018/NĐ-CP quy định việc phân chia lợi nhuận thu được cho Nhà nước khi nhận giao quyền sử dụng để nghiên cứu, phát triển công nghệ, sản phẩm công nghệ, ứng dụng, thương mại hóa kết quả được thực hiện từ khi tổ chức, cá nhân nhận chuyển giao có lợi nhuận tương ứng với tỉ lệ vốn Nhà nước đã đóng góp vào nhiệm vụ.
Điều này có nghĩa là mức hỗ trợ càng cao thì phần lợi nhuận tương ứng phải trả cho Nhà nước càng lớn. Quy định như vậy không tạo động lực cho tổ chức chủ trì là doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp công lập và nhà khoa học trong việc triển khai thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ.
Trong thực tế, quá trình thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ đòi hỏi nguồn vốn đầu tư tiếp theo rất lớn và mang tính rủi ro cao. Nếu yêu cầu hoàn trả cho Nhà nước theo tỉ lệ đóng góp kinh phí cho việc tạo ra kết quả đó sẽ không khuyến khích nhà đầu tư, doanh nghiệp tham gia quá trình thương mại hóa.
Đồng thời, việc Nhà nước yêu cầu thu hồi khoản kinh phí đã đầu tư cho nghiên cứu khi giao quyền sẽ không thúc đẩy đơn vị chủ trì đưa kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ vào thương mại hóa. Tương tự, nhà nghiên cứu cũng không có động lực tiếp tục tham gia quá trình thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ để tạo ra doanh thu, lợi nhuận hoặc góp vốn bằng tài sản trí tuệ để thành lập doanh nghiệp spin-off, spin-out cùng doanh nghiệp và khu vực tư nhân.
Ngoài ra, theo Luật Viên chức thì viên chức trong viện nghiên cứu, trường đại học công lập không được phép tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp, mà chỉ có thể tham gia góp vốn thành lập doanh nghiệp (Khoản 3 Điều 14 Luật Viên chức).
Quy định này cũng tạo ra rào cản cho cán bộ quản lý của viện nghiên cứu, trường đại học công lập không thể tham gia quản lý, điều hành công ty spin-off của đơn vị mình. Thường là doanh nghiệp, nhà đầu tư mong muốn tham gia thành lập công ty spin-off gắn với uy tín, trách nhiệm quản lý, điều hành của cán bộ quản lý viện, trường. Một số cán bộ quản lý các ban, khoa, viện, trường đứng trước lựa chọn khi muốn làm giám đốc điều hành công ty spin-off thì phải rời vị trí hiện tại của mình. Quy định này trong thực tế chưa khuyến khích đội ngũ cán bộ có năng lực của viện, trường, nhất là các chủ nhiệm đề án tham gia hoạt động thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ cùng doanh nghiệp.
Theo Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt, trong năm 2022, các cơ chế, chính sách giải pháp của Bộ sẽ tập trung để đại học thực sự trở thành trung tâm nghiên cứu khoa học và công nghệ. Đặc biệt, Bộ sẽ nghiên cứu, đề xuất cơ chế thí điểm phát triển loại hình doanh nghiệp khoa học và công nghệ tại các viện nghiên cứu, trường đại học theo mô hình spin-off. Tăng cường gắn kết, hợp tác giữa các trường đại học, viện nghiên cứu với khu vực công nghiệp và doanh nghiệp để đẩy mạnh thương mại hóa kết quả nghiên cứu trong thực tiễn sản xuất, kinh doanh.
Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt cho biết, hiện nay, muốn thực hiện đề án thử nghiệm liên kết "ba nhà" (Nhà nước - nhà doanh nghiệp - nhà khoa học) thành lập doanh nghiệp spin-off sẽ vướng chừng 5-6 bộ luật và chỉ có mô hình sandbox mới hy vọng tháo gỡ được những rào cản pháp lý.
Sandbox là khung thể chế thí điểm, cho phép một số ít doanh nghiệp thử nghiệm các công nghệ mới, mô hình kinh doanh mới trong môi trường thực tiễn nhưng có phạm vi và thời gian xác định, dưới sự giám sát của các nhà quản lý và có phương án dự phòng rủi ro phù hợp để ngăn hậu quả của sự thất bại mà không ảnh hưởng lớn đến hệ thống tài chính quốc gia. Hiện Bộ KH&CN đang phối hợp với các đơn vị để xây dựng đề án dựa trên các nhiệm vụ khoa học và công nghệ để báo cáo Thủ tướng, Quốc hội thông qua.